Giáo dục vốn là một trong những mảnh đất mà tốc độ đột phá thuộc hạng CHẬM so với rất nhiều ngành nghề. Vì vậy, trong một thế giới vừa đi nhanh vừa nhiều biến động, nó đòi hỏi chúng ta – những người làm giáo dục, dù ở bậc phổ thông hay đại học, cao học – cũng cần tăng tốc, đổi mới và BỨT PHÁ chính BẢN THÂN chúng ta, trước khi nói đến việc chúng ta có thể làm gì cho sinh viên.
Vậy câu hỏi đặt ra: Trong cách chúng ta đã và đang giáo dục, đào tạo sinh viên, đâu là những chỗ mà sinh viên chúng ta đang… “chết”. Bởi vì phần lớn sinh viên khi bước ra trường, đối diện với đổi thay chóng mặt của thế giới, rất xa rời và hụt hơi trước thực tế. Chúng thấy một khoảng trống to đùng từ cánh cửa tốt nghiệp và cánh cửa vào đời.
NHỮNG “ĐIỂM MÙ CHÍ MẠNG”
Joe Fuller và Bill Kerr, hai giáo sư của Trường Kinh doanh Harvard, phối hợp chèo lái dự án nghiên cứu dài hơi Managing the Future of Work (Quản lý tương lai của việc làm).
Khi thế giới đang “chuyển kênh” liên tục như được lên dây cót, các công ty cũng đang đứng trước nhiều thử thách lần đầu tiên phải đối mặt: tốc độ phát triển công nghệ, lực lượng lao động bất ổn, khoảng trống kỹ năng của nhân công, mức độ tiếp cận và sử dụng tài năng toàn cầu, tuổi thọ trung bình kéo dài, mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn.
Những xu hướng này đặt ra một bài toán khó và áp lực chuyển mình lên trên giáo dục đại học và phổ thông. Làm sao để chuẩn bị cho sinh viên bước vào đời vững vàng, bản lĩnh?
Giờ đây mối quan ngại ít khi là kiến thức hoặc kỹ năng chuyên ngành. Lỗ hổng thường nằm ở những năng lực nền tảng và kỹ năng mềm – những chìa khóa được cho là động cơ thúc đẩy năng lực học tập trọn đời của người học.
Dự án nghiên cứu của Joe và Bill đã thống kê những kỹ năng được cho là quan trọng nhất, xếp thứ tự từ cao xuống, đang bị thiếu hụt trầm trọng trong lực lượng sinh viên ra trường, kể cả từ các trường đại học hàng đầu:
Không những vậy, nhận thức của sinh viên ra trường giờ đây vẫn tồn đọng nhiều vấn đề. Một mặt, sinh viên đòi hỏi phải có mức lương cao và nhiều điều kiện như: thời gian làm việc linh hoạt, làm việc tại nhà, lương thưởng tăng nhanh.
Thế nhưng mặt khác, hiệu suất làm việc của họ chưa tốt, mức độ gắn kết với công việc kém hơn, tỷ lệ nhảy việc cao khó đỡ. Thậm chí họ không mấy dấn thân vào công việc và không khai thác bản thân để phát triển tốt nhất có thể.
Trong nghiên cứu của Tổ chức nghiên cứu kinh tế NBER, hai học giả Stacy Berg Dale và Alan Krueger đã kết luận: “Những sinh viên từ các trường đại học hàng đầu không kiếm được nhiều tiền hơn những sinh viên bị các trường lớn từ chối và theo học ở những trường xếp hạng thấp hơn nhiều”.
Một cuộc khảo sát của Tổ chức Gallup cho thấy chỉ có 11% các nhà lãnh đạo doanh nghiệp hàng đầu thế giới cho rằng đại học trang bị đủ “súng ống” để sinh viên gia nhập vào thị trường việc làm, 89% các nhà lãnh đạo doanh nghiệp còn lại lắc đầu ngao ngán.
Đáng báo động hơn, khoảng một nửa sinh viên tốt nghiệp đại học ở Mỹ thất nghiệp, hoặc làm những công việc mà chỉ cần học sinh tốt nghiệp cấp ba là có thể “mần” được ngon lành. Ở nhiều phương diện năng lực, thái độ và tính cách, những sinh viên tốt nghiệp đại học không khá khẩm gì hơn so với những người đi làm chỉ có bằng phổ thông hoặc bằng cao đẳng, học nghề.
Thế nhưng, 94% người Mỹ trưởng thành vẫn tin tưởng tuyệt đối vào giá trị cao quý của tấm bằng đại học. Họ gần như mù tịt rằng:
Sở hữu một tấm bằng đại học chưa chắc đã nhẹ nhàng mở được cánh cửa nặng trịch dẫn vào đời và cũng chưa chắc đã trải nhựa mịn màng cho đường đến thành công. Có vẻ như niềm tin của họ vẫn chưa bắt kịp được xu thế vận hành và tốc độ thay đổi của thế giới.
Cả một bộ máy chính sách và các viện nghiên cứu, những tổ chức và cá nhân đóng vai trò định hướng tương lai cho hệ thống giáo dục Mỹ vẫn đang hì hục chạy đua nghiên cứu để tìm câu trả lời cho những câu hỏi: Giáo dục khai phóng sẽ đi về đâu? Khai phóng học sinh, sinh viên như thế nào để họ đủ sức lực và tâm thế bước vào đời?
Trong những “liều thuốc” mà họ đang tìm kiếm, dù ở nơi nào, họ cũng đặc biệt thảo luận với tôi về ba “gia vị”:
Xứ người ta thì đang miệt mài, nghiêm túc nghiên cứu để có khi còn khai phóng cả “giáo dục khai phóng”. Mọi thay đổi, nếu không gắn với nền tảng rõ ràng, rất dễ biến thành cách làm “vơ đũa cả nắm” hoặc hớt váng bỏ chất.
Làm giáo dục theo kiểu tiện lợi mì ăn liền, chạy theo xu hướng thị trường hoặc “cứng đầu” bám rễ những điều cũ kỹ, sẽ rất dễ lãng phí thời gian và nguồn lực. Nhưng phí phạm lớn nhất chính là thời gian, cơ hội và đôi khi là cả cuộc đời của lũ trẻ.
Từ thuở ban đầu của giáo dục khai phóng, những người đặt nền tảng cho nó đã nêu tuyên ngôn: Giáo dục khai phóng nên làm được bốn điều cho học trò: cởi trói, kích hoạt, phối hợp, đột phá.
Giáo dục không phải đơn giản là để người học ngay sau khi ra trường sẽ có được công việc để sinh sống, mà còn là dạy cách tư duy, cách nghĩ và cách học để mỗi người có thêm cơ hội chạm gần đến với đam mê đích thực của bản thân.
Bài viết được 3S biên tập lại tại nguồn Facebook Hieu Nguyen